Một người đánh cá ở sông
Đà, đoạn dòng Nậm Mu đổ ra, khi quăng chài, đã kéo lên một thi thể đang
bị phân hủy, không còn ra hình hài một con người nữa. Một số bộ phận
trên cơ thể đã bị biến mất...
Khi
thủy điện Sơn La khởi công, cũng là lúc các kỹ sư địa chất gói ghém
hành lý ngược dòng Nậm Mu làm công việc liên quan đến địa chất để xây
dựng thủy điện Huổi Quảng và thủy điện Bản Chát, đặc biệt là thủy điện
Nậm Nhùn rất lớn trên đầu nguồn sông Đà.
Tôi
đã từng có thời gian suốt nửa tháng lội núi băng rừng, cưỡi thuyền
ngược thác dữ theo những người lính địa chất và được chứng kiến không
ít câu chuyện đau lòng, những hi sinh thầm lặng của những người làm địa
chất nơi rừng xanh núi đỏ.
Chiếc U-oát cũ
rích long sòng sọc như bu gà nhảy chồm chồm trên con đường đá hộc lởm
chởm từ xã Ít Ong vượt qua dãy núi đá vôi Pi Toong sừng sững. Đoạn
đường chấm dứt ở bản Cun thuộc xã Chiềng Lao (Mường La). Từ đây, muốn
đến địa điểm sắp xây dựng thủy điện Huổi Quảng, nơi giáp ranh giữa
huyện Mường La và huyện Than Uyên của Lai Châu, phải đi thuyền đến thác
Nà Cương, rồi cứ cuốc bộ ngược sông Nậm Mu.
Đứng
trên dãy núi Hua Trai cao lừng lững kéo dài từ Trạm Tấu về, nhìn xuống
thung lũng, thấy gương mặt dòng Nậm Mu xếp chồng lên nhau những nếp
nhăn dài. Nó dềnh lên trong mắt sự hoang vu, mông muội trong cái ánh
sáng lấp lánh của những câu chuyện cổ xưa. Doi cát nhô ra, buổi chiều
tím lại, trời lạnh cắt da cắt thịt mà các cô gái Thái vẫn khỏa trần
dưới sông khoe làn da lên màu men sứ nguyên sơ đến lạ lùng.
Anh
Huỳnh Phong, Phó giám đốc Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I, trông qua
dễ nhầm là gã sơn tràng cả đời ăn bờ ngủ bụi, bảo: “Sông Nậm Mu đẹp
lắm, nhưng thác thì dữ dội, chẳng năm nào nó không nuốt mất vài mạng
sống của ông lái đò, của những trẻ nhỏ, kể cả những người lính địa chất
đã quá dạn dày với núi sông, rừng thẳm. Kẻ chìm sông lạc suối ở Nậm Mu
không tìm thấy xác, trôi ra sông Đà là bị thủy quái ăn thịt ngay”.
Nói
rồi, anh Phong dẫn tôi trượt từ sườn Hua Trai xuống bản Nà Lếch, nằm
bên sông Nậm Mu. Ven sông mùa nước cạn, những bãi cát lấp lánh, bãi cỏ
gianh rậm rì. Anh vạch bụi cỏ gianh, một nấm đất buồn thảm nhô ra, mấy
cọng hương vung vãi, mốc thếch. Lâu lắm rồi không có bàn tay người chăm
sóc ngôi mộ. Trên tấm bia gỗ khắc dòng chữ đơn sơ: Phạm Văn B, sinh năm
1978, mất năm 2004, quê quán TP. Hạ Long.
Phạm
Văn B là một kỹ sư khoan năng động, xốc vác, có trách nhiệm với công
việc, sẵn sàng theo chân lớp kỹ sư già đi hết cánh rừng này đến dòng
sông khác để chia sẻ cái nhọc nhằn mà lớp cha chú đã trải qua. Nhớ lại
cái chết bi tráng của B ai cũng thương xót, nuối tiếc.
Đó
là một buổi chiều tối tháng 5/2004, khi anh em kỹ sư địa chất chuẩn bị
dọn cơm trong căn lều bên sông Nậm Mu thì Phạm Văn B, chàng kỹ sư trẻ
tuổi, tốt nghiệp Đại học Mỏ địa chất khóa 43, cứ nằng nặc đòi sang bên
kia sông kiểm tra lại mũi khoan xem có an toàn, có thành công như mong
đợi không. Sớm mai anh được về phép sau mấy tháng xa người vợ mới cưới,
nên anh muốn sang sông kiểm tra mũi khoan lần cuối cho an tâm.
Khi anh em đang ăn cơm, một cô bé gái người Thái nước mắt ngắn dài vào lều báo: “Chú B bị lũ cuốn trôi mất rồi!”.
Mọi
người chạy thục mạng ra bờ sông, nhưng chỉ thấy dòng sông đỏ au cuồn
cuộn. Những súc gỗ đen ngòm lao vùn vụt trong dòng nước xiết. Nhìn dòng
nước ấy, người khóc lóc xót thương, người chỉ biết than trời!
Cô
bé người Thái kể rằng, em nhìn thấy chú B cứ đi đi lại lại bên sông để
tìm chiếc bè (anh em địa chất phải căng dây cáp qua sông Nậm Mu, rồi
chân dẫm vào bè, tay lần dây cáp mới qua được con sông hung dữ này),
nhưng chắc nước lớn cuốn bè trôi mất rồi. Không có bè, B liều mạng bám
vào sợi dây cáp bơi qua sông.
Thế nhưng,
khi ra đến giữa dòng thì lũ bất chợt đổ về. Lũ quật anh như cơn bão
quật trái cây trên cành. Sức thanh niên trai tráng cũng đâu địch lại
với lũ Nậm Mu. B mất hút trong dòng nước đỏ lòm quái quỷ.
Cả
đêm hôm ấy, anh em địa chất chạy dọc hai bên bờ sông, đèn pin soi loang
loáng mặt nước, chỉ mong tìm được xác B nguyên vẹn cho đỡ tủi thân,
nhưng chạy cả chục cây số, ra đến tận sông Đà mà vẫn không tìm thấy B
đâu.
Đồng
bào Thái ở ven sông Nậm Mu có bao nhiêu lưới, móc câu đều giăng kín
sông, nhưng chẳng câu được gì, xác B vẫn mất tăm, mất tích trong dòng
nước.
Hơn nửa tháng sau, một người đánh
cá ở sông Đà, đoạn dòng Nậm Mu đổ ra, khi quăng chài, đã kéo lên một
thi thể đang phân hủy, không còn ra hình hài một con người nữa.
Người
dân dọc sông Đà, phần chảy qua Lai Châu, Sơn La đã quen với việc gặp
những xác chết bị cá xâu xé như thế. Loài cá lăng, chiên khổng lồ, lừ
đừ như quả bom dưới nước nào có tha thứ gì. Những xác chết, động vật
thối rữa là khoái khẩu của chúng.
Anh
em địa chất đắng lòng nhận ra chàng kỹ sư B qua chiếc áo đã rách tơi
tả, chiếc áo mà vợ mua cho B vẫn giữ gìn, vẫn gối đêm đêm trong giấc
ngủ đơn côi giữa rừng già. Quá đau đớn, quá khủng khiếp! Người nhà nhìn
thấy thảm cảnh này sao mà chịu được! Nghĩ vậy, anh em địa chất mang B
lên bãi cỏ gần nơi làm việc chôn để tiện hương khói. Buổi làm tang ma
chôn B cũng chỉ có mấy chén rượu tiễn biệt và chứa chan nước mắt.
Sau
khi B chết, mấy lần anh em thay nhau về phép tìm gặp vợ B, nhưng không
ai đủ can đảm để nói ra sự thật thảm khốc ấy. Cái chết của B quá bi
thương, khủng khiếp. Anh Phong và các lãnh đạo Xí nghiệp đều là bậc cha
chú, mấy lần định nói sự thật, song khi gặp vợ B ở công ty đều tránh vì
không biết phải nói thế nào. Chuyện B chết, lại bị “quái vật” cá lăng,
cá chiên sông Đà xâu xé cả cái cơ quan ấy đều sụt sùi kể cho nhau nghe,
trong khi phải nửa năm sau vợ B mới biết.
Sau
chuyến ngược sông Đà theo những kỹ sư địa chất, tôi tìm gặp vợ B, sống
cô độc trong một căn phòng gác hai của một dãy nhà chung cư nằm ở ngoại
vi thị xã Hà Đông. Vợ B là Phạm Hồng P, công tác cùng cơ quan với chồng.
Căn
nhà trọ độ 25m2 mà có cảm giác rộng thênh thang. P ngồi bó gối ở góc
phòng với đôi mắt buồn rười rượi. Tôi ngồi bên P mà không dám hỏi nhiều
về B, bởi cứ nhắc đến là P không kìm lòng được.
B
và P cùng làm ở phòng Kỹ thuật địa chất. Mặc dù làm cùng cơ quan, song
cả năm gặp nhau được vài lần. Trước ngày cưới một tuần, B vẫn còn lặn
lội ở sông Nậm Mu. Chưa trọn tuần trăng mật đã lại khăn gói lên đường,
rồi sự việc không may ập đến.
P nói
trong nước mắt: "Cưới xong một tuần thì anh ấy nằng nặc đòi đi. Anh bảo
không có ai theo dõi mũi khoan thì không yên tâm. Anh ấy mất hồi tháng
5 mà đến tháng 11 em mới biết".
Suốt
nửa năm không thấy tin tức chồng, trong lòng như có lửa đốt. Như có
linh tính mách bảo, P bắt xe khách, xe ôm rồi đi bộ vào tận Huổi Quảng.
Không giấu được nữa, nên anh em địa chất phải nói thẳng chuyện B chết
với P. Lúc tìm thấy chồng thì mộ chồng đã xanh cỏ rồi. 24 tuổi, chưa có
mụn con, P trở thành góa phụ.
Đà, đoạn dòng Nậm Mu đổ ra, khi quăng chài, đã kéo lên một thi thể đang
bị phân hủy, không còn ra hình hài một con người nữa. Một số bộ phận
trên cơ thể đã bị biến mất...
Khi
thủy điện Sơn La khởi công, cũng là lúc các kỹ sư địa chất gói ghém
hành lý ngược dòng Nậm Mu làm công việc liên quan đến địa chất để xây
dựng thủy điện Huổi Quảng và thủy điện Bản Chát, đặc biệt là thủy điện
Nậm Nhùn rất lớn trên đầu nguồn sông Đà.
Tôi
đã từng có thời gian suốt nửa tháng lội núi băng rừng, cưỡi thuyền
ngược thác dữ theo những người lính địa chất và được chứng kiến không
ít câu chuyện đau lòng, những hi sinh thầm lặng của những người làm địa
chất nơi rừng xanh núi đỏ.
Chiếc U-oát cũ
rích long sòng sọc như bu gà nhảy chồm chồm trên con đường đá hộc lởm
chởm từ xã Ít Ong vượt qua dãy núi đá vôi Pi Toong sừng sững. Đoạn
đường chấm dứt ở bản Cun thuộc xã Chiềng Lao (Mường La). Từ đây, muốn
đến địa điểm sắp xây dựng thủy điện Huổi Quảng, nơi giáp ranh giữa
huyện Mường La và huyện Than Uyên của Lai Châu, phải đi thuyền đến thác
Nà Cương, rồi cứ cuốc bộ ngược sông Nậm Mu.
Cá chiên - "quái vật" sông Đà. (Ảnh sưu tầm).
trên dãy núi Hua Trai cao lừng lững kéo dài từ Trạm Tấu về, nhìn xuống
thung lũng, thấy gương mặt dòng Nậm Mu xếp chồng lên nhau những nếp
nhăn dài. Nó dềnh lên trong mắt sự hoang vu, mông muội trong cái ánh
sáng lấp lánh của những câu chuyện cổ xưa. Doi cát nhô ra, buổi chiều
tím lại, trời lạnh cắt da cắt thịt mà các cô gái Thái vẫn khỏa trần
dưới sông khoe làn da lên màu men sứ nguyên sơ đến lạ lùng.
Anh
Huỳnh Phong, Phó giám đốc Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I, trông qua
dễ nhầm là gã sơn tràng cả đời ăn bờ ngủ bụi, bảo: “Sông Nậm Mu đẹp
lắm, nhưng thác thì dữ dội, chẳng năm nào nó không nuốt mất vài mạng
sống của ông lái đò, của những trẻ nhỏ, kể cả những người lính địa chất
đã quá dạn dày với núi sông, rừng thẳm. Kẻ chìm sông lạc suối ở Nậm Mu
không tìm thấy xác, trôi ra sông Đà là bị thủy quái ăn thịt ngay”.
Nói
rồi, anh Phong dẫn tôi trượt từ sườn Hua Trai xuống bản Nà Lếch, nằm
bên sông Nậm Mu. Ven sông mùa nước cạn, những bãi cát lấp lánh, bãi cỏ
gianh rậm rì. Anh vạch bụi cỏ gianh, một nấm đất buồn thảm nhô ra, mấy
cọng hương vung vãi, mốc thếch. Lâu lắm rồi không có bàn tay người chăm
sóc ngôi mộ. Trên tấm bia gỗ khắc dòng chữ đơn sơ: Phạm Văn B, sinh năm
1978, mất năm 2004, quê quán TP. Hạ Long.
Phạm
Văn B là một kỹ sư khoan năng động, xốc vác, có trách nhiệm với công
việc, sẵn sàng theo chân lớp kỹ sư già đi hết cánh rừng này đến dòng
sông khác để chia sẻ cái nhọc nhằn mà lớp cha chú đã trải qua. Nhớ lại
cái chết bi tráng của B ai cũng thương xót, nuối tiếc.
Đó
là một buổi chiều tối tháng 5/2004, khi anh em kỹ sư địa chất chuẩn bị
dọn cơm trong căn lều bên sông Nậm Mu thì Phạm Văn B, chàng kỹ sư trẻ
tuổi, tốt nghiệp Đại học Mỏ địa chất khóa 43, cứ nằng nặc đòi sang bên
kia sông kiểm tra lại mũi khoan xem có an toàn, có thành công như mong
đợi không. Sớm mai anh được về phép sau mấy tháng xa người vợ mới cưới,
nên anh muốn sang sông kiểm tra mũi khoan lần cuối cho an tâm.
Khi anh em đang ăn cơm, một cô bé gái người Thái nước mắt ngắn dài vào lều báo: “Chú B bị lũ cuốn trôi mất rồi!”.
Mọi
người chạy thục mạng ra bờ sông, nhưng chỉ thấy dòng sông đỏ au cuồn
cuộn. Những súc gỗ đen ngòm lao vùn vụt trong dòng nước xiết. Nhìn dòng
nước ấy, người khóc lóc xót thương, người chỉ biết than trời!
Cô
bé người Thái kể rằng, em nhìn thấy chú B cứ đi đi lại lại bên sông để
tìm chiếc bè (anh em địa chất phải căng dây cáp qua sông Nậm Mu, rồi
chân dẫm vào bè, tay lần dây cáp mới qua được con sông hung dữ này),
nhưng chắc nước lớn cuốn bè trôi mất rồi. Không có bè, B liều mạng bám
vào sợi dây cáp bơi qua sông.
Thế nhưng,
khi ra đến giữa dòng thì lũ bất chợt đổ về. Lũ quật anh như cơn bão
quật trái cây trên cành. Sức thanh niên trai tráng cũng đâu địch lại
với lũ Nậm Mu. B mất hút trong dòng nước đỏ lòm quái quỷ.
Cả
đêm hôm ấy, anh em địa chất chạy dọc hai bên bờ sông, đèn pin soi loang
loáng mặt nước, chỉ mong tìm được xác B nguyên vẹn cho đỡ tủi thân,
nhưng chạy cả chục cây số, ra đến tận sông Đà mà vẫn không tìm thấy B
đâu.
Đồng
bào Thái ở ven sông Nậm Mu có bao nhiêu lưới, móc câu đều giăng kín
sông, nhưng chẳng câu được gì, xác B vẫn mất tăm, mất tích trong dòng
nước.
Hơn nửa tháng sau, một người đánh
cá ở sông Đà, đoạn dòng Nậm Mu đổ ra, khi quăng chài, đã kéo lên một
thi thể đang phân hủy, không còn ra hình hài một con người nữa.
Người
dân dọc sông Đà, phần chảy qua Lai Châu, Sơn La đã quen với việc gặp
những xác chết bị cá xâu xé như thế. Loài cá lăng, chiên khổng lồ, lừ
đừ như quả bom dưới nước nào có tha thứ gì. Những xác chết, động vật
thối rữa là khoái khẩu của chúng.
Anh
em địa chất đắng lòng nhận ra chàng kỹ sư B qua chiếc áo đã rách tơi
tả, chiếc áo mà vợ mua cho B vẫn giữ gìn, vẫn gối đêm đêm trong giấc
ngủ đơn côi giữa rừng già. Quá đau đớn, quá khủng khiếp! Người nhà nhìn
thấy thảm cảnh này sao mà chịu được! Nghĩ vậy, anh em địa chất mang B
lên bãi cỏ gần nơi làm việc chôn để tiện hương khói. Buổi làm tang ma
chôn B cũng chỉ có mấy chén rượu tiễn biệt và chứa chan nước mắt.
Sau
khi B chết, mấy lần anh em thay nhau về phép tìm gặp vợ B, nhưng không
ai đủ can đảm để nói ra sự thật thảm khốc ấy. Cái chết của B quá bi
thương, khủng khiếp. Anh Phong và các lãnh đạo Xí nghiệp đều là bậc cha
chú, mấy lần định nói sự thật, song khi gặp vợ B ở công ty đều tránh vì
không biết phải nói thế nào. Chuyện B chết, lại bị “quái vật” cá lăng,
cá chiên sông Đà xâu xé cả cái cơ quan ấy đều sụt sùi kể cho nhau nghe,
trong khi phải nửa năm sau vợ B mới biết.
Sau
chuyến ngược sông Đà theo những kỹ sư địa chất, tôi tìm gặp vợ B, sống
cô độc trong một căn phòng gác hai của một dãy nhà chung cư nằm ở ngoại
vi thị xã Hà Đông. Vợ B là Phạm Hồng P, công tác cùng cơ quan với chồng.
Căn
nhà trọ độ 25m2 mà có cảm giác rộng thênh thang. P ngồi bó gối ở góc
phòng với đôi mắt buồn rười rượi. Tôi ngồi bên P mà không dám hỏi nhiều
về B, bởi cứ nhắc đến là P không kìm lòng được.
B
và P cùng làm ở phòng Kỹ thuật địa chất. Mặc dù làm cùng cơ quan, song
cả năm gặp nhau được vài lần. Trước ngày cưới một tuần, B vẫn còn lặn
lội ở sông Nậm Mu. Chưa trọn tuần trăng mật đã lại khăn gói lên đường,
rồi sự việc không may ập đến.
P nói
trong nước mắt: "Cưới xong một tuần thì anh ấy nằng nặc đòi đi. Anh bảo
không có ai theo dõi mũi khoan thì không yên tâm. Anh ấy mất hồi tháng
5 mà đến tháng 11 em mới biết".
Suốt
nửa năm không thấy tin tức chồng, trong lòng như có lửa đốt. Như có
linh tính mách bảo, P bắt xe khách, xe ôm rồi đi bộ vào tận Huổi Quảng.
Không giấu được nữa, nên anh em địa chất phải nói thẳng chuyện B chết
với P. Lúc tìm thấy chồng thì mộ chồng đã xanh cỏ rồi. 24 tuổi, chưa có
mụn con, P trở thành góa phụ.